Ảnh hưởng của pheromone lên tâm trạng và cảm giác hưng phấn của phụ nữ

Ảnh hưởng của pheromone lên tâm trạng và cảm giác hưng phấn của phụ nữ

Pheromone là những chất được tiết ra bởi một cá nhân và được ghi nhận bởi một cá thể khác cùng loài.

 

Pheromone có thể tồn tại trong tất cả các chất tiết ra của cơ thể nhưng hầu hết chúng ta chỉ chú ý đến mồ hôi nách vì nó chứa pheromone 16-androstenes nặng mùi. Một trong những hợp chất steroid này là androstadienone, hiện diện ở nồng độ cao trong tuyến mồ hôi nam giới và được nữ giới ghi nhận (mặc dù thái cực về độ nhạy mùi có khoảng cách khá lớn). Bôi một liều dược lý androstadienonein lên phần dưới cánh mũi của phụ nữ giúp cho tâm trạng của họ được cải thiện và nâng cao tập trung – đặc biệt là phần thu nạp thông tin cảm xúc. Tâm trạng tích cực luôn tạo ra phản ứng hưng phấn và tập trung cao giúp cải thiện thỏa mãn tình dục. Đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra tác dụng có lợi của androstadienone lên ham muốn tình dục và gây hưng phấn.

Pheromone cũng có khả năng đóng vai trò rất lớn trong việc lựa chọn bạn đời, đó là kiểu gen phân ly bạch cầu liên quan đến kháng nguyên bạch cầu (HLA). Bằng chứng sơ bộ cho thấy việc ảnh hưởng của androstadienone lên phụ nữ giúp nâng cao xếp hạng mức độ hấp dẫn của bạn tình tiềm năng.

Tóm lại, một số dữ liệu chỉ ra rằng pheromone 16-androstene, đặc biệt là androstadienone, đóng vai trò có lợi trong thúc đẩy tâm trạng nữ giới, tăng tập trung và gây phản ứng hưng phấn.

Mời các bạn đọc thêm chi tiết về nghiên cứu.

 

Hưng phấn và các giác quan

Các giác quan đóng vai trò then chốt trong phản ứng tình dục của phụ nữ.  Sự thân mật gần gũi tình cảm với đối tác có thể khiến phụ nữ bị kích thích tình dục. Đặc biệt thông qua các kích thích vật lý cụ thể (cảm giác xúc giác) là ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, các giác quan khác cũng rất quan trọng. Trong khi sự tương tác xúc giác bên ngoài của các mối quan hệ trực tiếp, chúng ta không hề nghi ngờ vai trò của các kích thích thị giác trong hưng phấn tình dục. Kích thích thính giác, có thể ít rõ ràng hơn (ví dụ, âm nhạc du dương) cũng có thể hoạt động như một tín hiệu tình dục. Vậy còn kích thích khứu giác thì sao? Mặc dù hầu hết mọi người sẽ đồng ý rằng mùi khó chịu có thể gây ức chế mạnh, nhưng vẫn chưa rõ liệu các tín hiệu khứu giác khác có thể hoạt động như khơi mào tình dục hay không.

 

pheromone

 

Pheromone ở động vật và người

Nghiên cứu trên động vật đưa ra định nghĩa về pheromone, là các chất được tiết ra bên ngoài bởi một cá thể và được thu nhận bởi một cá thể thứ hai cùng loài. Tạo ra một phản ứng cụ thể, ví dụ, một hành vi cụ thể hoặc một quá trình phát triển hành vi.

Theo thời gian, có bốn loại pheromone đã được ghi nhận (Bảng).

Pheromone phóng thích (Releaser) thường thúc đẩy một phản ứng hành vi ngay lập tức và được ghi nhận phần lớn ở động vật. Ví dụ, lợn đực giống tiết ra androstenone (5α-androst-16-en-3α-one) gây kích thích cong ưỡn xương sống (biểu hiện sẵn sàng cho giao phối) ở lợn nái trong thời kỳ động dục của chúng. Do đó, androstenone được sử dụng để hỗ trợ thụ tinh nhân tạo cho các loài nhím.

Danh mục pheromones

Tên gọi
Hiệu ứng
Releaser (phóng thích)
Gợi phản ứng hành vi gần như tức thì và cụ thể
Signaler (Tín hiệu)
Cung cấp thông tin liên quan đến cá thể
Modulator (Điều chuyển)
Ảnh hưởng đến tâm trạng và cảm xúc
Primer (Nền)
Ảnh hưởng theo thời gian lên hệ thống nội tiết hoặc thần kinh liên quan đến tâm sinh lý hoặc phát triển sinh sản
Pheromone tín hiệu (Signaler) chủ yếu là các tín hiệu hoá học: chúng cung cấp thông tin về vị trí của động vật trong hệ thống phân cấp loài. Thông tin về loại thực phẩm mới được tiêu thụ bởi động vật khác và do đó chỉ dẫn nguồn thức ăn xung quanh. Pheromone tín hiệu cũng rất quan trọng trong lựa chọn bạn tình.

Pheromone điều chuyển (Modulator) gây ảnh hưởng đến các thông số tâm thần kinh. Trong khi những hiệu ứng này rất khó để đánh giá ở động vật, nhưng chúng lại là trọng tâm của hầu hết các nghiên cứu ở người.

Cuối cùng là pheromone nền (Primer) gây ảnh hưởng đến các thông số (thần kinh)-endocrine, bao gồm cả chu kỳ kinh nguyệt. Vì những thay đổi nội tiết thường điều chỉnh các thông số về tâm thần kinh, nên Modulator và Primer pheromone có khả năng trùng lặp ảnh hưởng.

Pheromone ở người có thể tồn tại trong dịch tiết cơ thể như nước tiểu, tinh dịch hoặc dịch tiết âm đạo, sữa mẹ và có khả năng có trong cả nước bọt và hơi thở. Nhưng hầu hết chúng ta chỉ tập trung chú ý đến dịch tiết mồ hôi nách. Các chất tiết ở nách bắt nguồn từ eccrine và apocrine (tiết qua nang lông) tuyến mồ hôi và tuyến bã nhờn. Các chất tiết ra không có mùi nhưng do tương tác với các vi khuẩn trên da nên apocrine tạo thành mùi. Sự phân tán mùi được điều biến bởi một số yếu tố bao gồm các lớp trang phục, nhiệt độ cơ thể, độ dày mỏng của nang lông, cử động cánh tay và độ nhậy mùi của mũi. Thành phần chính của mồ hôi là các axit hữu cơ đơn giản (ví dụ, axit E-3-methyl-2-hexenoic và axit 3-methyl-3-hydroxylhexanoic).

Các pheromone mồ hôi nách giả định có các thành phần cấu trúc steroid, đặc biệt là 16-androstenes có mùi: androstadienone (4,16-androstadien-3α-one), androstenone (đã đề cập ở trên) và androstenol (5α-androst-16-en-3 ol). Trong số các steroid này, androstadienone dường như có tác dụng mạnh nhất đối với cả hai giới nhưng đặc biệt là ở nữ giới. Nồng độ của 16-androstenes ở nam giới cao hơn nhiều so với chất tiết từ mồ hôi nách nữ giới. Khác biệt giới tính có thể là nguyên nhân cho việc nam giới có mức độ huyết tương gấp ba lần nữ giới và một hệ vi sinh vật trên da rất khác. Mặc dù các steroid này tồn tại ở nồng độ thấp hơn từ 50 – 100 lần so với một số axit hữu cơ đã đề cập ở trên, tác dụng của chúng phụ thuộc vào độ phát tán, ngưỡng cảm nhận và cũng như thời gian tiếp xúc với các hợp chất này. Nữ giới có xu hướng nhạy cảm với androstadienone hơn nam giới và dường như có một nhóm những cá nhân nữ có độ nhạy cao (siêu nhậy mùi).

Estratetraenol (estra-1,3,5, 16-tetraen-3-ol) là một pheromone giả định được tiết ra đặc biệt bởi nữ giới. Lần đầu tiên được phân lập từ nước tiểu của phụ nữ mang thai vào năm 1968. Chất hóa học này cũng có trong các dịch tiết khác như mồ hôi nách. Nói chung, tác dụng của estratetraenol nhỏ hơn so với androstadienone nhưng chúng đi theo cùng một hướng. Mặc dù về lý thuyết, pheromone nhắm vào đối tác của nữ giới, nhưng estratetraenol có tác dụng rõ rệt với phụ nữ dị tính.

Ở động vật có vú nhỏ, việc nhốt chung con cái đang cho con bú trong cùng một chuồng gây kéo dài chu kỳ động dục của các con cái không mang thai khác. Oxytocin dĩ nhiên là hợp chất đầu tiên chúng ta nghĩ tới. Hormone này rất quan trọng đối với sự gắn kết giữa cha mẹ và trẻ sơ sinh và sự gắn bó của con người nói chung. Oxytocin dễ dàng được phát hiện trong huyết tương nhưng cũng có trong nước tiểu và nước bọt, mặc dù ở nồng độ thấp. Hormone này được giải phóng qua tương tác (ví dụ như bú mẹ, nhưng cũng có thể do xoa bóp) hoặc việc trò chuyện tâm tình giữa các thành viên trong gia đình. Việc oxytocin có thể được giải phóng qua tương tác khứu giác hay không thì vẫn chưa được khẳng định.

 

Vomeonasal (cơ quan lá mía mũi), khứu giác hay khả năng thẩm thấu qua da ?

 

Động vật có vú không phải người và các loài động vật không có vú như bò sát và lưỡng cư đều phát triển một mô cụ thể, mô này có thể phát hiện hầu hết các pheromone: đó là cơ quan vomeonasal (cơ quan lá mía mũi – VNO), nằm trong khoang mũi (phía trước). VNO chứa các tế bào thụ thể lưỡng cực, và các dây thần kinh sợi trục đi qua vách ngăn mũi và đi qua màng lọc để liên kết với trục khứu giác chính.

Trong khi thai nhi thể hiện rõ cơ quan VNO với các tế bào lưỡng cực điển hình và các tế bào sợi trục, thì hầu hết các bằng chứng đều cho thấy, sau khi sinh VNO không còn chức năng. Các gen mã hóa thụ thể protein trở thành pseudogenes lỗi; các tế bào thụ thể lưỡng cực không còn có thể phát hiện được và gai khứu giác phụ trợ bị triệt tiêu. Điều thú vị là các tế bào thần kinh GnRH – tế bào quan trọng cho sự phát triển dậy thì và sinh sản – thay thế các dây thần kinh VNO đã bị biến hóa, di chuyển từ khu vực VNO của thai nhi đến hạch nền não trước.

Một số pheromone ở động vật có vú (không phải người) được phát hiện bởi hệ thống khứu giác thông thường chứ không phải bởi cơ quan VNO. Ví dụ, phản ứng của lợn nái đối với lợn đực giống (được đề cập ở trên), vẫn diễn ra sau khi VNO bị phẫu thuật chặn bằng xi măng y tế. Do đó, tuy chức năng VNO không còn ở người trưởng thành, nhưng không thể loại trừ khả năng nhận thức pheromone ở người. Khứu giác của con người cũng tốt như các loài động vật có vú khác nhưng đang bị đánh giá thấp.

Những người tham gia trong nghiên cứu về pheromone thường được bôi dung dịch lên da. Pheromone cũng có thể hoạt động thông qua thẩm thấu qua da vì chúng ảnh hưởng đến các thông số vật lý bao gồm hệ thống thần kinh tự trị.

 

Phương pháp nghiên cứu pheromone và các khả năng bị sai lệch

Các đối tượng nghiên cứu thường là tình nguyện viên được tuyển dụng thông qua các áp phích, online, vv, vì vậy nhóm mẫu sẽ trẻ và có giáo dục cơ bản. Trong phần lớn các nghiên cứu, mục đích thực sự của nghiên cứu đã không được tiết lộ với những người tham gia. Họ chỉ được cho biết là đang tham gia một nghiên cứu về mùi. Trong các nghiên cứu tốt nhất, mục đích nghiên cứu hoàn toàn không được tiết lộ nhưng các tình nguyện viên đã bị lừa bởi một số mánh khóe và mùi được đưa vào thử nghiệm nhưng không ai phát hiện.

Trong phần lớn các nghiên cứu, pheromone và các dung dịch kiểm soát được bôi lên phần da giữa môi trên và mũi với một miếng bông gạc, hoặc hít từ trong lọ. Trong tất cả các nghiên cứu, nồng độ của pheromone trong dung dịch thử là dược lý. Thường androstadienone là 0,25-6,25 * 10-3mol / l (so với nồng độ 0,44 * 10-6mol / l trong tuyến mồ hôi). Với nồng độ cao và vì tính chất mùi của 16-androstenes, một nhóm nhỏ của những người tham gia nghiên cứu có thể ghi nhận mùi xạ hương của dung dịch pheromone, so sánh nó với mùi “mồ hôi”, “nước tiểu”, “người bạn nam cùng phòng” hay “quần áo bẩn”. Do đó, trong các nghiên cứu tiếp theo, các nhà nghiên cứu đã che giấu mùi pheromone (và mùi dung dịch kiểm soát) bằng cách thêm 1% tinh dầu đinh hương hoặc 1% eugenol vào dung dịch dẫn. Tuy vậy, việc thêm hương xoá mùi vào dung dịch có thể đã làm ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Thêm nữa, việc xoá mùi không loại trừ được khả năng thiên vị: một số người tham gia nghĩ rằng hương đinh hương có mùi giống “mùi Giáng Sinh” và thường đi kèm với các mối liên hệ tích cực hoặc tiêu cực liên quan.

 

Tác động điều chuyển của pheromone lên nữ giới

Có rất nhiều nghiên cứu với các phương pháp khác nhau đã chứng minh rằng, những thành viên nữ tham gia nghiên cứu, có biểu hiện tâm trạng đạt kích thích tích cực, giảm tâm trạng tiêu cực sau khi tiếp xúc với chất chiết xuất từ nách nam giới hoặc androstadienone tinh khiết (nhưng không phải androstenol hoặc giả dược). Khả năng tăng cấp cảm xúc do androstadienone còn phụ thuộc vào liều lượng của nó và vào tiền tâm trạng khi được tiếp cận phim buồn hay phim vui. Khả năng này bị vô hiệu khi thành viên nghiên cứ bị kích thích đau.

Ngoài ra, những những thành viên nữ tham gia nghiên cứu cũng cảm thấy tập trung hơn (thể chất hưng phấn hơn) sau khi tiếp xúc với androstadienone.

Việc cải thiện tâm trạng và khả năng tập trung của androstadienone, đóng vai trò quan trọng trong khả năng tình dục của phái nữ. Các nghiên cứu trong môi trường phòng thí nghiệm cho thấy việc tạo ra tâm trạng tích cực hoặc một lược đồ tình dục tích cực (tập hợp các quan điểm nhận thức) đã tạo điều kiện cho kích thích về tinh thần và bộ phận sinh dục nữ giới. Ngoài ra, việc phân tâm trong hoạt động tình dục cũng chính là yếu tố dự dẫn đến kém thỏa mãn tình dục. Ngoài ra, việc đắp miếng đệm ngực và nách có tẩm dịch tiết của phụ nữ đang cho con bú trên 3 tháng, cũng làm tăng mạnh ham muốn tình dục và tưởng tượng tình dục ở phụ nữ. Mặc dù vẫn chưa rõ liệu pheromone giả định chiết từ mồ hôi hoặc dịch tiết mẹ bỉm sữa có là nguyên nhân cho biểu hiện này hay không.

Androstadienone cũng ảnh hưởng đến các thông số sinh học tương thích với sự kích thích vật lý tăng dần. Đặc biệt ở nồng độ cao, androstadienone kích hoạt hệ thống thần kinh tự trị tạo ra hiệu ứng giao cảm ở phụ nữ, làm mát lòng bàn tay và tăng độ dẫn điện của da. Hơn nữa, nồng độ cortisol trong nước bọt cao hơn sau khi tiếp xúc với androstadienone so với giả dược.

Kết quả trong các nghiên cứu về khả năng kích hoạt của androstadienone lên các khu vực não vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên dữ liệu sơ bộ cho thấy quá trình ảnh hưởng lên não của androstadienone và estratetraenol có khác nhau giữa dị tính nữ và đồng tính nữ.

 

Pheromone nền tác động lên hệ thống thần kinh nội tiết ở nữ giới

Các nghiên cứu sơ bộ đã đề xuất mức độ đồng bộ kinh nguyệt sau khi tiếp xúc với pheromone trong một nhóm nữ. Ví dụ, trong một đúp thí nghiệm mù, hàng ngày nhóm phụ nữ bôi lên trên môi của họ một chiết xuất từ nách của người tặng. Điều này làm giảm khoảng cách chu kỳ kinh nguyệt của họ với người tặng trung bình từ 8,3 ngày xuống trung bình 3,9 ngày trong 3 chu kỳ. Ngược lại, nhóm bôi giả dược có chênh lệch chu kỳ trung bình từ 6,2 ngày khi bắt đầu, và tới 7,6 ngày sau 3 chu kỳ. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng nhân học nào cho việc đồng bộ chu kỳ trong các cộng đồng châu Phi sống gần nhau.

Tóm lại, bất kỳ tác dụng tiềm năng nào của pheromone đối với chu kỳ kinh nguyệt đều cần được xác nhận thêm. Tại thời điểm hiện tại, chưa có kết luận chắc chắn.

 

Tác dụng báo hiệu của pheromone

Mồ hôi nách cá nhân chính là dấu ấn hóa học của người. Người trưởng thành có thể nhận ra mùi áo phông của họ lẫn trong số 100 áo giống hệt nhau của người khác. Các thành viên trong gia đình cũng có thể xác định áo phông của bạn tình, của trẻ con và của anh chị em. Ngay cả trẻ sơ sinh bú sữa mẹ cũng có thể xác định được mùi của mẹ chúng.

Pheromone gây ra hiệu ứng tín hiệu như vậy có thể rất quan trọng trong lựa chọn bạn tình. Ở một số loài, giao phối là sự phân ly giữa các loài liên quan đến kiểu gen phức hợp tương hợp mô lớn (MHC), còn được gọi là hệ thống kháng nguyên bạch cầu của người (HLA A, B, C, DR, DQ). Các cá thể thích giao phối với cá thể khác nhau về kiểu gen MHC. Đây là nỗ lực tự nhiên để bảo vệ thế hệ sau khỏi bệnh do đồng hợp tử gây ra. Trong việc lựa chọn bạn đời khác nhau, các giác quan rất quan trọng: cảm giác thị giác về khuôn mặt và cơ thể, ghi nhận sự hấp dẫn của đối phương, cảm giác thính giác về đặc điểm giọng nói và khứu giác (VNO ở động vật có vú) đối với mùi cơ thể.

Nếu coi việc nhận dạng mùi cơ thể là quan trọng để lựa chọn bạn đời, liệu 16-androstenes – loại pheromone quan trọng nhất được xác định tại thời điểm này – có đóng vai trò trung gian hay không? Saxton và cộng sự. (2008) đã sử dụng một cách tiếp cận thực tế để kiểm tra tác động của androstadienone đó là tổ chức sự kiện hẹn hò nhanh. Nhóm nghiên cứu thiết lập 3 thí nghiệm khác nhau với 12-25 phụ nữ và 19-25 nam giới, mỗi đôi có 3 phút tương tác. Nữ giới sẽ đánh giá sức hấp dẫn của đối tác tiềm năng trong lúc ngửi một trong 3 loại bông gòn có chứa androstadienone pha dầu đinh hương 1% hoặc tinh dầu đinh hương 1% hoặc nước. Hai trong số 3 thí nghiệm, việc đánh giá xếp hạng dưới tác động của androstedienone cho độ hấp dẫn cao hơn khi so với tác động của nước. Chỉ có 1 thí nghiệm xếp hạng cao hơn dưới tác động của androstedienone so với tác động của dung dịch chứa tinh dầu đinh hương.

Tóm lại, các nghiên cứu sơ bộ cho thấy pheromone đóng vai trò trung gian trong việc lựa chọn bạn tình khác gen thông qua biểu hiện hấp dẫn.

 

Kết luận chung

Pheromone luôn là một lĩnh vực nghiên cứu thú vị. Hiện nay, 16-androstenes và đặc biệt là androstadienone được cho là một pheromone ảnh hưởng đặc biệt lên phụ nữ. Chúng nằm trong thành phần mồ hôi nách nam giới và có thể trong các chất tiết cơ thể khác. Androstadienone hỗ trợ cải thiện tâm trạng, nâng cao độ tập trung và điều chỉnh các điểm sinh học. Tâm trạng tích cực và tập trung cao độ rất quan trọng đối với phụ nữ để đạt được và đáp ứng thỏa mãn tình dục. Bằng chứng sơ bộ cho thấy androstadienone cũng đóng vai trò trung gian trong việc lựa chọn bạn tình.

Trích dịch theo bài nghiên cứu đăng trên trang Trung tâm Thông tin Công nghệ Sinh học Quốc gia Mỹ.

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3987372/

Gửi comment